Thiền phái Trúc Lâm – Đạo Phật của Việt Nam
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là sự dung hợp của ba dòng Thiền (Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường) với sự sáng lập của Tam Tổ Trúc Lâm. Trước khi Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử độc lập ra, ba dòng Thiền trên đã du nhập và tồn tại trong đời sống văn hoá, tín ngưỡng Đại Việt.
1. Đức vua anh hùng Trần Nhân Tông – Người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông thờ tại tháp Huệ Quang - Yên Tử
Phật Hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, con đầu của Vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu. Ngài sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258), khi mới sinh có màu da ánh sắc như vàng ròng, nên được vua cha gọi là “Kim Phật”. Năm 16 tuổi, được lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài đã từ chối đến ba phen, xin nhường để em mình là Đức Việp thay thế, nhưng đều không được vua cha chấp thuận. Vua Trần Thánh Tông đã nhận thấy đức, tài gánh vác việc nước của Ngài được bộc lộ rất rõ. Thuở nhỏ, có lần, đang nửa đêm, Ngài vượt thành ra đi, lên núi Yên Tử với ý định xuất gia tu hành. Vua Trần Thánh Tông sai quần thần đi tìm khắp nơi, bất đắc dĩ Ngài phải trở về. Hoàng Thái Tử kết duyên cùng với trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẫu là Khâm Từ Thái Hậu và đã sinh hạ được ba người con là Trần Thuyên, Trần Quốc Chẩn và Trần Huyền Trân.
Năm 21 tuổi (1278) lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Thiệu Bảo. Trong 14 năm Ngự ngai vàng, Vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo nhân dân xây dựng Quốc gia Đại Việt hùng mạnh, hai lần kháng chiến, chống giặc Nguyên - Mông thắng lợi vào năm 1285 và 1288, đem lại thái bình cho muôn dân và nền độc lập vững bền của Quốc gia Đại Việt. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ III, trong buổi lễ trang nghiêm mừng thắng trận, trước anh linh các vua Trần ở Phủ Long Hưng (Thái Bình), Trần Nhân Tông đã cảm khái đọc hai câu thơ đầy khí phách hào hùng:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
Dịch nghÜa:
Đất nước hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng
Từ kinh nghiệm lịch sử của ba cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông thắng lợi, vua Trần Nhân Tông đã rút ra bài học là muốn bảo vệ và xây dựng đất nước, giữ gìn nền độc lập dân tộc, vấn đề cốt lõi là phải thống nhất đoàn kết dân tộc thành một khối, phải điều hoà quyền lợi của các giai cấp trong xã hội, quan lại phải liêm chính, trong sạch, làm gương cho thiên hạ.
Năm 1293, Ngài đã truyền ngôi báu cho con trưởng Trần Thuyên (hiệu là Trần Anh Tông), còn Ngài lên làm Thượng Hoàng, về phủ Thiên Trường (Nam Định), chuyên tâm giảng cứu kinh Phật, thực tập xuất gia ở Hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình) trong vòng sáu năm để chuẩn bị cho bước xuất gia của Ngài về Yên Tử tu hành, để tìm ra đường lối xây dựng một nền đạo đức xã hội hướng thiện, thu phục nhân tâm, đoàn kết dân tộc, giữ cho "non sông nghìn thuở vững âu vàng". Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại: "Bấy giờ Thượng Hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá. Cửa núi đá hẹp, Thượng Hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, Thái Hậu Tuyên Từ ở đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng mũi thuyền. Chỉ cho một phu chèo thuyền mà thôi. Kịp đến khi Thượng Hoàng xuất gia, khi Thượng Hoàng sắp ra đi, bèn mời Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức, cung Thánh Từ ban cho ngồi ăn đồ biển, làm thơ rằng:
Hồng thấp bác quy cước,
Hoàng hương chá mã yên.
Sơn Tăng trì tịnh giới,
Đồng toạ bất đồng san,
Dịch nghĩa:
Chân rùa bóc đỏ mọng.
Yên ngựa nướng vàng thơm.
Sơn Tăng giữ giới sạch,
Cùng ngồi chẳn cùng ăn".
Lúc này, Thượng Hoàng đã ăn chay, giữ tịnh giới và cho xây dựng một Am Thiền trên núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am chuẩn bị cho bước xuất gia sắp tới.
Tuy vậy, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông vẫn luôn quan tâm theo dõi công việc triều chính, việc Quốc sự. Thường xuyên chỉ giáo cho Vua Trần Anh Tông công việc trị vì, an dân.
Tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) niên hiệu Hưng Long thứ 7, Trần Nhân Tông về Yên Tử tu hành, lấy Đạo Hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà, sau đổi là Trúc Lâm Đại Sỹ, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài trở thành Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm và đã xây dựng Yên Tử trở thành Kinh đô Phật giáo của Quốc gia Đại Việt. Ngài là Đức Phật của Việt Nam. Phật Hoàng Trần Nhân Tông từ lúc thiếu thời, cũng như khi là Hoàng Thái Tử, hay lúc Ngự ngai vàng, hơn ai hết, Ngài đã thấm nhuần sâu sắc tinh thần bình đẳng chứa đựng trong tư tưởng Phật giáo: "Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ; không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn" và tiếp nhận được tinh hoa yếu chỉ Thiền Tông từ các bậc hiền nhân như: Vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) là một vị Vua đầu tiên của triều Trần (1225- 1258 ) và là ông nội của Vua Trần Nhân Tông.
Vua Trần Thái Tông rất kính trọng Thiền sư Đạo Viên trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử đầu thế kỷ thứ XIII, Thiền sư rất có uy tín với triều đình và dân chúng và tôn ông vào hàng Quốc sư, gọi tên hiệu là Phù Vân Quốc sư. Vào năm Bính Thân (1236), Vua Trần Thái Tông mang nỗi u buồn trong lòng về đạo lý hôn nhân trong triều mà không giãi bày được cùng ai. Đêm ngày mùng Ba tháng Tư năm đó, Vua Trần Thái Tông trốn khỏi Kinh thành Thăng Long đến núi Yên Tử xin Quốc sư Phù Vân cho tu hành học Phật: "Trẫm muốn vào núi là chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu gì khác". Quốc sư đã khai thị cho Vua Trần Thái Tông: "Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong Tâm ta. Nếu Tâm lặng và sáng đó là Phật đấy. Nếu Bệ hạ giác ngộ được Tâm đó thì lập tức thành Phật, không phải khốn khổ tìm ở bên ngoài". Câu trả lời của Quốc sư với Vua Trần Thái Tông biểu lộ ý chỉ của Thiền là "Phật ở trong Tâm", khi Tâm tĩnh lự, tự tính giác ngộ thì "Bụt ở trong nhà, khỏi tìm đâu xa, chính ta là Bụt". Trước khi buộc phải quay về Kinh thành Thăng Long, Quốc sư đã khuyên Vua: "Phàm là đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nếu Bệ hạ thực lòng hiếu Phật, thì không có gì bằng quay trở về lo cho bách tính, giảm nhẹ hình án, chăm lo cây đức của muôn nhà mãi mãi xum xuê, sự tìm hiểu nội điển, xin Bệ hạ chớ nguôi quên". Bởi vậy, khi trở lại làm vua, gánh vác việc giang sơn xã tắc, những lúc rảnh rỗi, Vua Trần Thái Tông thường nghiên cứu về Thiền, mời các cao Tăng vào cung để bàn luận Phật pháp, nên hiểu đạo Phật rất sâu xa. Trong thời gian này, Vua Trần Thái Tông đã viết cuốn "Thiền Tông Chỉ Nam" và cuốn "Khoá Hư Lục", mà sau này Trần Nhân Tông kế thừa tiếp thu những tinh hoa Thiền ở ông nội của Ngài trong việc xây dựng giáo lý Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Cùng với Vua Trần Thái Tông còn có Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung, là con trai đầu của Khâm Minh Từ An Sinh Vương Trần Liễu, là anh ruột của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông đã từng làm tướng xông pha trận mạc trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288). Đất nước sạch bóng quân thù và được bình yên, Thượng Sỹ Trần Tung, nhận chức Tiết Độ sứ ở Thái Bình một thời gian ngắn. Sau đó, ông lui về tu Thiền, học Phật. Ông là một cư sỹ có đức trọng, tài cao mà Vua Trần Thánh Tông đã tôn làm sư huynh, gọi bằng cái tên cao quí Thượng Sỹ và cho con là Trần Nhân Tông theo để tham Thiền, học Phật. Trần Nhân Tông, tiếp thu tinh thần yếu chỉ Thiền từ Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung là một con người có bẩm tính thanh cao, nổi tiêng thuần hậu, khí tượng thâm trầm, thần thái nghiêm trang, phong thần nhàn nhã, cử chỉ đĩnh đạc, mỗi khi đàm luận về lẽ cao siêu, huyền diệu thì như gió mát trăng thanh. Các bậc đạo cao đức trọng đâu đâu cũng đều tôn trọng, cho Thượng Sỹ là người "tin sâu biết rõ" ngược xuôi thật khó mà lường. Thượng Sỹ cho rằng, tìm sự giác ngộ là tìm ngay trong đời sống hiện thực này. Khi tâm con người được bao dung, mở rộng, bao chứa được tâm của vạn pháp nghĩa là đạt tới cái tâm của vạn pháp, khi đó là đạt đến tâm Phật, là giác ngộ, giải thoát. Đó chính là "Vạn pháp chi tâm, tức tâm Phật" (Tâm của vạn pháp tức là tâm Phật).
Tuệ Trung Thượng Sỹ có sự giác ngộ Thiền cao siêu là đi theo phương pháp của Vua Trần Thái Tông, khi Ngài theo lời khuyên của Quốc Sư Phù Vân: "Lấy mong muốn của thiên hạ làm mong muốn của mình. Lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình". Đây là tư tưởng Phật giáo thời Trần, với tinh thần nhập thế mạnh mẽ, tích cực. Từ đó, làm cơ sở vững chắc để Sơ Tổ xây dựng phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - đó là dòng Thiền mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, là Phật giáo Việt Nam mang tinh thần yêu nước chân chính, tinh thần nhập thế mạnh mẽ, tích cực. Kết hợp chặt chẽ đạo với đời, đời với đạo, để tốt đời đẹp đạo làm cho "Quốc thái dân an".
Ngài đã đi khắp các chốn thôn dã để giáo hóa khuyên dân bỏ những hủ tục mê tín, dâm từ và thực hành thập thiện. Những năm cuối đời, Trúc Lâm Đại Sỹ dồn hết tâm sức cho việc hoá đạo, chuẩn bị nhân sự kế thừa để lo việc Giáo hội. Chính trong thời gian này, Ngài đã chọn và truyền trao Y-bát cho Thiền sư Pháp Loa trở thành Đệ Nhị Tổ và chọn Thiền sư Huyền Quang làm thị giả, sau này trở thành Đệ Tam Tổ Thiền Trúc Lâm nối lửa, tiếp hương một mạch chảy dài vang vọng mãi đến hôm nay.
Dù không ở ngôi Vua, sống xa triều đình, hoàng cung, nhưng Trần Nhân Tông vẫn luôn quan tâm đến công việc triều chính. Có lần Phật Hoàng Trần Nhân Tông bất ngờ về Kinh đô, thấy Vua Trần Anh Tông ham chơi, say mê tửu sắc, sao nhãng việc triều chính, việc quốc sự. Ngài định phế truất ngôi Vua của Trần Anh Tông, nhưng triều thần kịp can ngăn xin cho, nên Ngài chỉ khiển trách và khuyên bảo Vua Anh Tông hãy tu tâm dưỡng tính để xứng danh là bậc Quân Vương. Từ đó, Vua Anh Tông đã tập trung chăm lo việc quốc sự, triều chính. Là một vị Thiền sư uyên thâm Phật học, là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm, được tôn xưng là vị Vua Phật Việt Nam, với tên gọi tôn kính là Điều Ngự Giác Hoàng, có nghĩa là ông Vua giác ngộ đạo Phật. Ngài còn đảm lãnh vai trò ngoại giao sang thăm nước Chiêm Thành một thời gian dài từ tháng 3 đến tháng 11 năm 1301, để củng cố bang giao hữu hảo, giữ cho non sông Đại Việt “nghìn thuở vững âu vàng”. Khi sang đất Chiêm Thành, Phật Hoàng Trần Nhân Tông rất thương yêu nhân dân Chiêm, mến mộ và thán phục nền văn hoá của họ, nhất là đối với Chế Mân vị Hoàng đế trẻ tuổi, đức độ, tài năng của nước Chiêm Thành đã một thời xông pha trận mạc, chỉ huy quân Chiêm Thành vây hãm, đánh bại đạo quân Nguyên - Mông do tướng Toa Đô chỉ huy ở vùng biển giáp ranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Chiến công đó, đã góp phần làm suy yếu đại quân Nguyên - Mông thiện chiến đã từng chiếm toàn bộ châu Âu và phần lớn châu Á đang hung hăng vó ngựa trên đất Đại Việt. Phật Hoàng đã hứa gả con gái út, đó là Công chúa Huyền Trân hiền thục, tài sắc cho Vua Chế Mân. Cuộc tình duyên giữa Vua nước Chiêm Thành và Công chúa nước Đại Việt đã trở nên vô cùng ý nghĩa bởi đức, tài của hai người khi gặp gỡ, chung sống đã hoà quyện vào nhau, tạo sự yêu kính, trân trọng lẫn nhau, làm nền tảng cho tình hữu nghị Việt - Chiêm tốt đẹp.
Sự kiện Huyền Trân Công chúa nước Đại Việt trở thành Hoàng Hậu nước Chiêm Thành thể hiện dấu ấn đậm nét nhất là việc đưa Châu Ô và Châu Lý của Chiêm Thành mà Vua Chế Mân đã cắt về cho Đại Việt năm 1306. Đó là lễ vật cầu hôn với Công chúa Đại Việt. Đây chính là thể hiện hạnh hy sinh tình nhà vì nghĩa nước, làm lợi lạc cho bách tính Quốc gia Đại Việt và đem lại cảnh thái bình cho hai dân tộc Chiêm -Việt, là sự nghiệp mở nước vĩ đại của Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng con đường thiện chí hoà bình, giao kết hữu hảo láng giềng Đại Việt và Chiêm Thành, để muôn dân hai nước không phải chịu cảnh chiến chinh và được hưởng thái bình, an lạc.
Mùa đông năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ XII (1304) Vua Trần Anh Tông dâng biểu mời Điều Ngự vào đại nội để thọ tâm giới Bồ Tát tại gia. Ngày vào thành, vương công, bá quan sắm lễ đầy đủ, đón rước xa giá của Điều Ngự rồi cùng thọ giới pháp.
Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông đi tu không phải trốn đời yếm thế, mà Ngài đi tu để nhập thế cứu đời “Làm Vua chăn dân trăm họ, làm Phật cứu đé muôn loài”. Trên non Yên Tử, Ngài hoàn thiện giáo lý của Pháp phái Thiền Trúc Lâm và suốt 10 năm tu hành, Ngài đã gắn bó với Danh sơn Yên Tử. Từ đây, giáo lý Thiền phái Trúc Lâm, một giáo lý được sáng tạo trên cơ sở kế thừa yếu tố tích cực, ưu việt của Phật giáo Đại thừa Ấn Độ, Phật giáo Thiền tông Trung Hoa, cùng Phật giáo Triều Lý và sự dung hợp Tam giáo đồng nguyên (Phật - Lão - Nho) đã được truyền bá, phát triển rộng khắp trên toàn cõi Đại Việt.
Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông là một con người đức độ và tài hoa. Trong Ngài có phong cách quả quyết, vững vàng của một người làm tướng xông pha trận mạc, có cái sắc bén, bình tĩnh, tự tin, nhìn xa trông rộng của một nhà chính trị, ngoại giao, có sự sâu sắc, thâm trầm của một bậc Đại thiện tri thức và quán xuyến hơn cả là một tấm lòng nhân ái yêu nước, thương dân, thắm đượm tình người, cùng với một tâm hồn thơ nhạy cảm, tinh tế. Lịch sử đã ghi công của Đức Vua Trần Nhân Tông có đức, có tài trị quốc, an dân, thì với những tác phẩm thi ca như: Đại Hương Hải Ân thi tập, Trần Nhân Tông thi tập và những trước tác có tính Thiền học như: Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Tăng Già Toái Sự, Thượng Sỹ Hành Trạng. Đặc biệt là hai tác phẩm: Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca và Cư Trần Lạc Đạo Phú đã được Phật Hoàng Trần Nhân Tông viết bằng chữ Nôm (là Quốc âm của nước ta thời đó), thực sự đã tác động sâu rộng đến truyền thống văn hoá dựng nước, giữ nước của dân tộc.
Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông là một người đi tiên phong trong việc sử dụng chữ Nôm kể cả trong công việc triều chính, trong đời sống xã hội, trong sáng tác văn học. Điều đó, thể hiện nền văn hoá vị nhân sinh sâu sắc, một tinh thần độc lập, tự cường dân tộc ngay cả trong văn tự. Sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi, khi trở về Kinh thành Thăng Long, Vua Trần Nhân Tông buộc các triều thần phải đọc chiếu bằng hai thứ tiếng: Hán và Nôm .Với Đức Vua Trần Nhân Tông, ý nghĩa của việc làm này là cốt để cho quần thần và dân chúng nghe, hiểu được nội dung chiếu chỉ; đồng thờì còn có ý nghĩa ở chỗ Việt hoá ngôn ngữ trong dân gian lẫn chốn cung đình. Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông thật xứng danh là một thi sĩ tài hoa, một danh nhân văn hóa.
Là bậc Hoàng đế uyên thâm Phật học, Ngài chủ trương dùng đức để giáo hóa, dùng tâm để quy tụ cố kết lòng dân. “Phật tâm” tức là tâm của muôn dân, tâm của dân tộc. Bản thân ngài là bậc hiếu trung, tôn người hiền, trọng kẻ sĩ, noi gương cha làm trước, con nối sau, thực hành thập thiện và khuyên muôn dân tu hành theo thập thiện để “quốc thái, dân an”. Chính vì thế, sau đại thắng giặc Nguyên - Mông, đất nước thái bình, Đức Vua Trần Nhân Tông đã phong thần cho những người có công với nước, với dân, như Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương, Triệu Quang Phục, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt...để tái dựng về một quá khứ huy hoàng của dân tộc. Việc làm này có một ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong việc tạo dựng truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đây là một đóng góp to lớn về đời sống văn hoá tư tưởng của Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông với dân tộc ta.
Ngày Mùng Một tháng Giêng năm Mậu Thân (1308), tại chùa Báo Ân ở Siêu Loại (nay thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội), Ngài tổ chức long trọng lễ truyền đăng trao Y-bát cho thiền sư Pháp Loa, có sự chứng dự của Vua Trần Anh Tông và các triều thần cùng chúng Tăng, Phật tử. Sau đó, Điều Ngự tiếp tục vân du đến nhiều nơi chốn thôn dã, thị thành để giáo hoá Đạo pháp Trúc Lâm. Tháng Tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang, giảng truyền Đăng Lục, lại sai Pháp Loa giữ chức trụ trì, bảo Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho đại chúng. Xong hạ, Ngài vào núi Yên Tử cho các tịnh nhân và người hầu hạ trở về chỉ giữ lại 10 thị giả thân cận để giúp đỡ. Điều Ngự lên ở Am Tử Tiêu, giảng truyền Đăng Lục cho Pháp Loa. Thị giả dần dần xuống núi gần hết, chỉ còn một đệ tử thượng túc là Bảo Sái ở lại. Từ đó, Điều Ngự đi khắp núi non, đêm về nghỉ nơi thạch thất. Bảo Sái bạch: "Tôn Đức xuân thu đã cao mà xông pha sương tuyết như vậy, thì mạng mạch Phật pháp rồi sẽ ra sao?". Điều Ngự nói: "Thời tiết đã đến, ta muốn tính kế lâu dài vậy". Tháng Mười mùa Đông năm 1308, Phật Hoàng Trần Nhân Tông về thăm Kinh thành Thăng Long, thăm Công chúa Thiên Thụy là chị gái của Ngài đang bị ốm nặng và tiếp tục vân du giáo hoá Phật pháp ở chùa Siêu Loại, chùa Cổ Châu, khi đến chùa Sùng Nghiêm núi Linh sơn, được Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu mời về Am Bình Dương thọ trai. Điều Ngự vui vẻ nói: "Đây là lần cúng dường cuối cùng" rồi đến thọ trai. Điều Ngự đi đến chùa Tú Lâm núi Kỳ Đặc ở Yên Sinh, cảm thấy đau đầu bèn nói với hai Tỳ kheo Tử Doanh và Hoàn Trung rằng: "Ta muốn lên đỉnh Ngoạ Vân mà sức chân không thể đi được nữa, biết làm sao đây?". Hai Tỳ kheo thưa: "Hai chúng con có thể giúp Thầy tới đó". Khi đến Ngoạ Vân, Điều Ngự cám ơn hai Tỳ kheo và dạy: "Xuống núi gắng lo tu hành, đừng xem việc sinh tử là nhàn hạ". Điều Ngự sai thị giả Pháp Không lên Am Tử Tiêu núi Yên Tử gọi Bảo Sái về gấp. Bảo Sái đi mất 2 ngày xuyên rừng, vượt suối mưa lũ mới đến Ngoạ Vân Am để hầu hạ, tiếp kiến Điều Ngự và đã được Ngài khai thị, giáo hoá Đạo pháp .
Vào lúc nửa đêm, một ngày mùa đông, sao sáng đầy trời, màn sương rơi xuống nhè nhẹ trùm lên những tán lá cây rừng, cảnh núi non tịnh lặng. Điều Ngự Trúc Lâm Đại Sỹ hỏi Bảo Sái, đệ tử của mình: "Bây giờ là giờ gì?" Bảo Sái thưa: "Giờ Tý" Trúc Lâm đưa tay ra hiệu mở cửa sổ nhìn ra ngoài và nói: "Đến giờ Ta đi rồi" Bảo Sái hỏi: "Tôn Sư đi đâu bây giờ?". Ngài nói:
Mọi Pháp đều không sinh.
Mọi Pháp đều không diệt.
Nếu hiểu được như thế.
Chư Phật thường hiện tiền
Chẳng đi cũng chẳng lại.
Sau khi nói xong, Điều Ngự Trúc Lâm Đại Sỹ theo thế sư tử nằm, an nhiên viên tịch, thọ 51 tuổi. Thời gian ấy, chính là ngày mùng Một tháng Mười Một năm MËu Thân (1308), Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn tại Am Ngọa Vân trên dãy núi Yên Tử. Một phần xá lợi của Ngài được lưu giữ ở Huệ Quang Kim Tháp trước cửa chùa Hoa Yên. Vua Trần Anh Tông dâng tông hiệu Phật Hoàng là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật, cho đúc hai pho tượng Ngài bằng vàng để thờ tại chùa Báo Ân ở Siêu Loại và chùa Vân Yên ở Yên Tử.
Tên tuổi và sự nghiệp của Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông là những nét son chói lọi trong trang sử vàng của dân tộc Việt Nam, là bậc Tổ sư tôn kính đối với tất cả chúng Tăng, Ni, Phật tử và con cháu muôn đời của đất Việt. Tư tưởng, tinh thần của Ngài: “Ở đời vui với đạo, sống tùy duyên” và sự dung hợp “Tam giáo đồng nguyên”, là tư tưởng sống hòa bình, giầu lòng nhân ái, đậm đà văn hoá cội nguồn dân tộc cần được phát huy tích cực trong đời sống tinh thần, tâm linh của người dân đất Việt. Chúng ta phải biết trân trọng, tôn quý, giữ gìn tài sản vô giá mà Phật Hoàng đã để lại. Đó, chính là nền tảng để xây dựng một đất nước hòa bình, thịnh vượng, dân giầu, nước mạnh, xã hội văn minh.
Vườn tháp Huệ Quang, Yên Tử- Nơi lưu giữ xá lợi Phật hoàng Trần Nhân Tông
2. Pháp Loa, Huyền Quang là người nối lửa, tiếp hương trở thành Đệ Nhị Tổ, Đệ Tam Tổ thiền phái Trúc Lâm
2.1.Đệ Nhị Tổ Pháp Loa
Đệ Nhị Tổ Pháp Loa thế danh là Đồng Kiên Cương, sinh ngày 07 tháng 05 năm Giáp Thân (1284) ở Làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương ngày nay. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Thị Cứu. Đồng Kiên Cương là con thứ chín và là người con trai duy nhất của gia đình. Trước khi sinh ra Đồng Kiên Cương, thân mẫu nằm mộng thấy có người trao cho thanh kiếm thần, bà vừa mừng, vừa lo. Sau đó, bà có thai. Vì trước đó, bà sinh hạ được tám người con gái nên thấy chán ngán và đã uống thuốc để trục thai, nhưng đều vô hiệu. Đến khi sinh ra Đồng Kiên Cương là con trai, bà cùng chồng mừng khôn siết, bèn đặt tên là Kiên Cương. Đồng Kiên Cương thiên tư, đĩnh ngộ, miệng không nói điều ác, không ăn được thịt cá. Từ nhỏ, rất thông minh và ham thích học đạo Phật.
Năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ XII (1304), Vua Trần Nhân Tông đi các nơi để giáo hóa thập thiện, ban pháp dược, khi đi qua Nam Sách, tình cờ gặp Đồng Kiên Cương qùy lạy xin xuất gia. Vua Trần chấp thuận và nói rằng: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm Pháp khí, vui vẻ tự đến đây”. Ngài bèn ban hiệu cho Đồng Kiên Cương là Thiện Lai, rồi dẫn về Liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn, thọ giới Sa di và chỉ cho đến tham vấn với Hoà thượng Tĩnh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, Thiện Lai tìm mọi cách thưa hỏi mà không được khai ngộ. Thiện Lai đã tự đọc bộ kinh Hải Nhãn, đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn du khách trần ở sau, xem đi, xem lại nhiều lần bỗng nhiên có chỗ hiểu. Sau đó, Thiện Lai tạ từ Hoà thượng Tĩnh Giác về tham yết với Điều Ngự. Gặp lúc Điều Ngự thượng đường, Thiện Lai thưa hỏi liền được tỉnh ngộ. Điều Ngự nhận biết và cho Thiện Lai theo hầu hạ Ngài. Một hôm, Thiện Lai trình luôn ba bài tụng, bị Điều Ngự chê cả. Thiện Lai đã thưa thỉnh mấy lần, Điều Ngự dạy phải tự tham kiến. Khi vào phòng, đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy bông bấc đèn tàn rụng xuống, Thiện Lai chợt đại ngộ, rồi đem chỗ ngộ trình lên Điều Ngự, Ngài thầm nhận ấn khả. Từ đây, Thiện Lai thệ tu theo mười hai hạnh Đầu đà. Năm Ất Tỵ, niên hiệu Hưng Long thứ XIII (1305), Thiện Lai đã được Điều Ngự thọ giới Tỳ kheo và giới Bồ Tát tại Liêu Kỳ Lân và đặt cho pháp hiệu là Pháp Loa. Cùng năm này, Huyền Quang ban đầu xuất gia ở chùa Lễ Vĩnh sau đến thọ giới cùng Bảo Phác
Pháp Loa là người thông minh xuất chúng, tinh thông kinh kệ, thông hiểu sâu sắc tam giáo (Phật - Lão - Nho). Năm Đinh Mùi, niên hiệu Hưng Long thứ XV (1307) Pháp Loa cùng 5 vị Pháp hữu đến Am Ngoạ Vân cầu thỉnh Điều Ngự Giác Hoàng giảng dạy bộ kinh Đại Huệ Ngữ Lục. Tháng 5 năm đó, trên Am Ngoạ Vân, khi làm lễ bố tá xong, Điều Ngự Giác Hoàng trao Tâm kệ và Y-bát cho Pháp Loa và khuyên dạy khéo giữ gìn. Ngày mồng Một tháng Giêng năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ XVI (1308) tại chùa Báo Ân ở Siêu loại (nay là huyện Gia Lâm - Hà Nội), Pháp Loa chính thức được Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông tin cậy cử giữ chức trụ trì chùa Báo Ân và được suy tôn trở thành Đệ Nhị Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngày mùng 01 tháng 11 năm 1308, Phật Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch. Pháp Loa phụng mệnh cung nghinh xá lợi Phật Hoàng về Kinh đô. Khi trở về Yên Tử, Pháp Loa soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mỵ Ngữ.
Năm 1311, Pháp Loa phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh và giao cho Bảo Sái làm chủ việc này. Tháng Tư, Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó Huyền Quang trình kiến giải đều được Pháp Loa chấp nhận.
Tháng 9 năm 1313, Pháp Loa phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang định chức cho Tăng đồ. Chúng Tăng từ đây mới có sổ bộ và do Pháp Loa giữ sổ bộ ấy. Những hàng Thái hậu, Công chúa, Vương công, quý khanh đều thỉnh Đệ Nhị Tổ Pháp Loa truyền giới xuất gia hoặc giới Bồ tát, cho đến các Vua Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông cũng xem như đệ tử.
Tháng 2 năm 1317, đời Vua Trần Minh Tông, Pháp Loa bị bệnh nặng. Pháp Loa đem Y của Điều Ngự và viết Tâm kệ trao cho Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít ngày Pháp Loa khỏi bệnh, người khoẻ trở lại. Pháp Loa tiếp tục trụ trì Tăng đoàn và giáo hoá Phật pháp.
Pháp Loa đã có công lớn trong việc phát triển ảnh hưởng của Thiền Phái Trúc Lâm trên toàn cõi Đại Việt. Pháp Loa là Thiền sư vừa uyên thâm giáo lý đạo Thiền, vừa có tài tổ chức các hoạt động của Phật giáo trong nước thời ấy. Pháp Loa đã có công khai sáng lập ra nhiều danh lam như: Viện Quỳnh Lâm, Côn Sơn, Thanh Mai Sơn... và tạo lập, tu sửa nhiều ngôi chùa như: Tạo 2 ngôi Đại Già Lam, xây 5 ngôi tháp, lập hơn 200 sở Tăng đường, độ Tăng, Ni 15.000 người, đệ tử đắc pháp hơn 3.000 người, thành đại pháp sư có 6 vị, in một bộ Đại Tạng Kinh, đúc tượng Phật hơn 1.300 vị. Pháp Loa cũng thường xuyên được mời giảng các Kinh Hoa nghiêm, Viên Giác, Tuyết Đậu Ngữ Lục, Đại Tuệ Ngữ Lục, Thượng Sỹ Ngữ Lục của Trần Tung và Thiền Lâm Thiết Chuỷ Ngữ Lục của Trần Nhân Tông. Pháp Loa còn nhận trọng trách san dịch, biên tập, in ấn nhiều kinh sách, kể cả các tác phẩm của các vị thầy như Thượng Sỹ Ngữ Lục hay Thạch Thất Mỵ Ngữ của Trần Nhân Tông...nhờ đó, mà Pháp Loa đã có điều kiện viết chú sớ cho nhiều bộ kinh như Kim Cương Trường Đà- La- Ni khoa chú, Niết bàn Đại Kinh khoa sớ...cũng như soạn một số bộ sách, như Pháp sư khoa văn, Độ môn trợ thành tập... Hoạt động Phật giáo của Đệ Nhị Tổ Pháp Loa, lôi cuốn được sự hưởng ứng của đông đảo chúng Tăng và của rất đông Vương hầu, Công chúa, Vua, quan triều đình. Vua Trần Anh Tông đã ban cho Pháp Loa tên hiệu là Phổ Tuệ Minh Giác Tịnh Trí Đại Tôn Giả. Năm 1318, Đệ Nhị Tổ Pháp Loa được Vua Trần Anh Tông phong là Quốc sư.
Những ngày tháng 2 và đầu tháng 3 năm 1330, Pháp Loa bị bệnh nặng, Thượng Hoàng Trần Anh Tông đến thăm và cho gọi thái y đến trị bệnh cho Pháp Loa. Đến tối ngày mùng 3 tháng Ba, trước lúc Pháp Loa viên tịch, Huyền Quang thưa: "Xưa nay đến chỗ ấy, buông đi là tốt hay nằm lại là tốt". Pháp Loa bảo: "Thảy đều không can hệ". Huyền Quang thưa: "Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?". Pháp Loa bảo: "Tùy xứ Tát- bà- ha".
Đệ tử cùng đến thỉnh kệ, Pháp Loa ngồi dậy bảo đem giấy, bút lại, rồi Ngài viết bài kệ:
" Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn.
Tứ thập dư niên huyễn mộng gian .
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
Na biên phong nguyệt cánh man khoan."
Dịch nghĩa:
"Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng.
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,
Bên kia trăng gió rộng thênh thang."
Pháp Loa viết xong bài kệ, ném bút an nhiên thị tịch, thọ 47 tuổi.
Đệ Nhị Tổ Pháp Loa viên tịch ngày mùng 03 tháng 3 năm Canh Ngọ (1330). Được an táng trong Bảo Tháp Viên Thông tại chùa Thanh Mai, Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay. Văn bia đã ghi lại phát nguyện của Ngài: "Chư Phật và Chư Bồ Tát có những hạnh nguyện gì, Tôi đều thiết tha xin tìm học và làm theo. Dù chúng sinh có khen chê, khinh hay trọng, dù bố thí hay xâm đoạt, khi mắt thấy, tai nghe, Tôi cũng đều xin cứu độ, khiến cho tất cả thảy được lên nấc thang giác ngộ".
2.2.Đệ Tam Tổ Huyền Quang
Đệ Tam Tổ Huyền Quang, thế danh là Lý Đạo Tái, quê ở làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Ngài sinh năm Giáp Dần (1254), thuộc dòng dõi quan lại Triều Lý. Phụ thân là Tuệ Tổ, không ham công danh chỉ ưa ngao du sơn thủy, vui thú cảnh điền viên và đọc sách, Mẫu thân họ Lê, là người hiền đức, chiều chuộng, yêu thương chồng con, kính thờ cha mẹ. Năm bà 30 tuổi mà chưa có con trai nối dõi, bà thường đến chùa Ngọc Hoàng ở hướng Đông Nam, gần nhà bà để cầu tự. Có một lần, giữa trưa hè, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, khi nghỉ dưới bóng cây mát ở sân chùa Ma Cô Tiên, bà mộng thấy một con khỉ lớn, đầu đội mũ Thiên triều, mình mặc áo Hoàng bào, ôm mặt trời hồng ném vào lòng bà. Sợ hãi, giật mình tỉnh dậy, bà thấy lòng rung động, sau đó bà mang thai. Đến khi sinh, là một đứa bé trai cứng cáp, toả ra mùi hương thơm phức và tia sáng mờ ảo. Đến tuổi đồng ấu, thể mạo của con trai bà dị thường, có chí của bậc trác việt vĩ nhân, sớm bộc lộ tư chất thông minh, hiếu học và mộ đạo Phật từ thuở nhỏ, Cha mẹ yêu mến dạy học thuật, học một biết mười, biệt tài hiển thánh, nên được gọi tên là Tải Đạo.
Năm 20 tuổi Lý Đạo Tái thi Hương đỗ đạt, 21 tuổi, đỗ đầu kỳ thi Hội, được vua Trần ngự ban là Trạng Nguyên và được bổ nhiệm làm quan ở Hàn Lâm viện của triều đình và phụng mệnh tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn ngữ của Đạo Tái vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục.
Năm 1305, nhân chuyến theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư Pháp Loa thuyết pháp, Ngài đã ngộ đạo, tỉnh ngộ duyên trước, tự than: "Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới Tây Phương là cõi Phật. Sự giầu sang phú quý như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến". Khi về triều, Ngài đã nhiều lần dâng biểu xin nhà Vua cho từ quan để xuất gia tu hành học Phật và đã được Vua Trần Anh Tông là người mộ Đạo Phật, quí trọng Thiền Tăng nên được chấp thuận. Năm đó ngài 51 tuổi, xuất gia ở chùa Vĩnh Nghiêm theo Bảo Phác thọ giới, Pháp hiệu là Huyền Quang.
Năm 1306, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đang trụ trì chùa Báo Ân ở Siêu Loại cử Pháp Loa làm chủ giảng. Khi thấy Huyền Quang đi cùng Bảo Phác đến chùa, Ngài bèn bảo Huyền Quang theo làm Thị giả. Điều Ngự lập Huyền Quang làm giảng sư và giao cho biên soạn chư phẩm kinh, khảo văn. Mỗi khi biên soạn xong, Huyền Quang dâng trình Điều Ngự Giác Hoàng duyệt, được Điều Ngự khen: “không thể thêm một chữ, không thể bớt một chữ” rồi sai đem in để truyền lại cho đời sau.
Năm 1309, nhân Pháp Loa, làm lễ đàn chay Vu Lan cầu nguyện cho Sơ Tổ Trúc Lâm, Huyền Quang có mặt tham dự, Pháp Loa nhắc lại: "Những điều Trúc Lâm Điều Ngự nói ông quen hết rồi sao?". Từ đó, Huyền Quang theo sát bên Pháp Loa để tham thiền, học Phật.
Ngày Rằm tháng Giêng năm 1313, Huyền Quang về Kinh đô thăm Vua, rồi đến chùa Báo Ân giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Sau đó, Huyền Quang dâng biểu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đây, lập ngôi chùa ở phía Tây nhà cha mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng Ngài, đề hiệu là chùa Đại Bi, lấy ý từ câu "Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, cứu độ cha mẹ quay về đạo Phật". Khi xây dựng ngôi chùa này, từ vua quan, đến thứ dân đều góp công đức bằng vàng bạc, của cải không thể kể hết. Khi chùa hoàn thành, Huyền Quang mở pháp hội lớn, bốn phương người về xem hội đông đúc. Sau bảy ngày đêm hoàn mãn, ngài đem những tiền của còn lại, công đức cho Tăng, Ni, các đạo tràng và bố thí cho những người nghèo đói, thiếu thốn trong làng, quanh vùng và họ hàng, bạn bè cố cựu.
Năm 1317, Đệ Nhị Tổ Pháp Loa truyền Y của Điều Ngự và Tâm Kệ cho Thiền sư Huyền Quang trụ trì chùa Vân Yên (chùa Hoa Yên). Do Huyền Quang đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên các môn đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không dưới ngàn người. Huyền Quang được Vua Trần phong là Quốc sư.
Quốc sư, thường phụng chiếu đi giảng kinh các nơi và tuyển soạn chư phẩm kinh, thư tịch như: Ngọc Tiên Tập; Chư Phẩm kinh; Công Văn Tập; Phổ Tuệ Ngữ Lục; Vịnh Vân Yên Tự Phú...Những khoa giáo trong nhà Thiền đều qua Huyền Quang thẩm duyệt.
Khi trở về trụ trì chùa Vân Yên, Quốc Sư Huyền Quang, lúc đó 63 tuổi, giữa chốn Sơn lâm vẫn dốc lòng phụng sự đạo pháp và Ngài đã cảm tác ở Am Yên Tử bằng những vần thơ tứ tuyệt Đường luật:
"Am sát trời xanh lạnh,
Cửa mở trên tầng mây.
Động Rồng nắng đã rọi,
Khê Hổ băng còn dày.
Vụng dại mưu chước lạ
Chống gậy đỡ thân gầy
Rừng trúc nhiều chim đậu,
Quá nửa bạn sư này."
Quốc sư Huyền Quang, từ lúc còn tuổi đồng ấu đến khi đỗ Trạng nguyên làm quan triều đình, rồi trở thành Thiền sư, không ham sắc dục. Lúc thiếu thời, cha mẹ có bàn đến việc hôn nhân, nhưng chưa quyết định cưới. Khi đỗ Trạng nguyên làm quan, Vua gả Công chúa Liễu Nữ cháu của An Sinh Vương thì cũng khước từ. Một hôm, Vua Trần Anh Tông nói với quan hầu cận, Tăng quan và đạo sỹ: "Từ khi sinh đến giờ, thầy Huyền Quang vẫn sắc sắc, không không, như nước không sóng, như gương không bụi, phải chăng là đè nén lòng dục, hay là không có lòng dục?". Một bậc học sỹ lừng danh, Lưỡng Quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi tâu với Vua: "Vẽ hổ, vẽ da, khó vẽ xương. Biết người, biết mặt, khó biết lòng". Hãy thử xem vì sao được như thế?.
Nhà vua nghe tâu, muốn thử lòng Quốc sư, đã ngầm sai gọi Điểm Bích là thị nữ vào nội điện, ban cho một thẻ bài cầm tay, và căn dặn: "Vị Tăng ấy vốn không ưa sắc dục, tính tình rất cương trực giới hạnh lại cao nghiêm. Ngươi có nhan sắc, lại có tài ăn nói, vừa thông hiểu sử kinh, vậy hãy đến thử Thầy ấy. Nếu Thầy còn động lòng quyến luyến tình dục, ngươi hãy dụ lấy cho được kim tử làm bằng chứng. Bằng gian trá, sẽ có tội. Ngươi phải kính cẩn vâng lời".
Điểm Bích vâng lệnh ra đi, đến chùa Vân Yên gặp vị Tỳ kheo, lấy cớ nhờ xin Thầy học Phật và đã dùng sắc đẹp, tìm cách gợi tình để quyến rũ, nhưng không thể nào cám dỗ lay chuyển được tấm lòng thanh tịnh của Quốc sư Huyền Quang. Điểm Bích chợt nảy ra man kế lợi dụng lòng từ bi của Quốc sư để có kim tử làm bằng chứng đem về tâu với Vua. Đêm đó,Điểm Bích đến gặp vị Tỳ kheo già, bịa ra câu chuyện, rồi vừa khóc vừa nói: "Thiếp vốn là con nhà vọng tộc ở Đường An, gia đình nhiều đời đỗ đạt làm quan, từng truyền lại cái học về thi lễ. Cha thiếp được làm chức Huyện thừa ở huyện Cảm Hoá, đạo Ninh Sóc, khi thu thuế ruộng hàng năm, tính thành vàng ròng được 115 dật. Khi mang về kinh nộp, đã bị kẻ gian lấy cắp". Rồi Điểm Bích đã dùng lời nói thảm thiết, nỗi đau khổ, lo sợ làm cho các Tăng, Ni, môn đồ nghe thấy mà xót thương cho tình cảnh nàng, không ai là không rớm lệ và cùng thưa với Quốc sư, xin góp vàng bạc công đức để cứu tính mạng của một gia đình.
Quốc sư suy ngẫm về ân đức hiếu sinh, để cho con cháu hưởng lộc dài lâu và nói: "Ta phải vì người mà về triều tâu rõ việc ấy, ngỡ hầu quảng bá đức hiếu sinh của Hoàng đế mà cũng là phương tiện cứu khổ tốt đẹp vậy".
Có một Tiểu Tăng bạch với Quốc sư: "Pháp luật là việc công của thiên hạ, ông ta không giữ cẩn thận, pháp quan bắt tội là đúng theo luật công vậy. Chúng ta có vàng, bạc đem cho là sự giúp đỡ riêng. Nếu vì muốn giúp riêng mà bỏ công pháp thì có nên hay không?".
Huyền Quang bảo: "Tiểu Tăng này nói đúng" bèn lấy một dật vàng cho Điểm Bích để đem về chuộc tội cho cha nàng. Chư Tăng, Ni cũng lấy tiền của ra cho.
Điểm Bích lấy được kim tử, bèn từ biệt ra về, để tâu với Vua sự việc do Thị dựng nên rằng: "Một ngày kia vào lúc ban đêm, Quốc sư lên chùa tụng kinh, đến canh ba, Quốc sư và Tăng, Ni trở về liêu phòng an nghỉ. Thiếp bèn lẻn vào đến cạnh Tăng phòng, thấy Quốc sư ngâm kệ rằng:
"Vằng vặc trăng mai ánh nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh.
Người hoà tươi tốt cảnh hoà lạ,
Mâu Thích-Ca nào thử hữu tình"
Quốc sư ngâm đi ngâm lại đến ba lần. Thiếp bèn vào phòng, từ biệt, xin trở về nhà thăm cha mẹ, hẹn năm sau sẽ trở lại xin học đạo. Quốc sư bèn lưu thiếp lại một đêm, tặng thiếp một dật kim tử".
Vua nghe nói, lòng buồn, không vui, bao câu hỏi nghi vấn trong lòng về Quốc sư Huyền Quang. Vua bèn cho mở Đại hội Vô Già ở phía Tây kinh thành và cho mời Quốc sư về. Vua bí mật cho bày trên bàn cúng cà sa, Y-bát, pháp khí lẫn lộn với cả đồi mồi, vàng bạc, châu ngọc. Khi Quốc sư về, đã vào triều yết kiến. Sáng sớm hôm sau, Quốc Sư vào đàn tràng, thấy bốn bên bọc lụa vàng, trên bàn bày các tạp vật cùng hương đăng lục cúng, biết là do việc cung nữ thử mình ngày trước, liền ngửa mặt lên trời than thầm, rồi lên đàn ba lần, xuống đàn ba lần. Đứng giữa đàn vọng bái Thánh hiền mười phương. Tay trái cầm bình bạch ngọc, tay phải cầm nhánh dương xanh, mật niệm và tẩy tịnh trên dưới, trong ngoài đàn tràng. Bỗng từ hướng Đông Nam, mây đen kéo đến, giông tố nổi lên, mù mịt ngất trời. Sau đó, liền dứt, các thứ tạp vật bị cuốn bay đi hết, chỉ còn lại hương đăng, lục cúng, mọi người dự lễ kinh hoàng. Vua thấy hạnh pháp của Quốc sư Huyền Quang thấu đến trời đất, liền rời chỗ ngồi, lạy xuống để tạ lỗi. Rồi phạt Điểm Bích, bắt làm tỳ nữ quét tước ở một ngôi chùa trong nội điện cung Cảnh Linh. Từ đó, Vua càng thêm tôn kính, gọi Quốc Sư Huyền Quang là Tự pháp.
Năm 1330, Đệ Nhị Tổ Pháp Loa long trọng tổ chức lễ truyền đăng trao Y-bát cho Thiền sư Huyền Quang, có sự tham dự của Thượng Hoàng Trần Minh Tông và các triều thần, Tăng sỹ. Thiền sư Huyền Quang trở thành Đệ Tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Ngài lập học trò xuất sắc là Thiền sư An Tâm làm trưởng sơn môn Yên Tử, còn Ngài về trụ trì chùa Thanh Mai được 06 năm, sau đó về trụ trì chùa Côn Sơn và lập ra Tòa Cửu phẩm liên hoa, giảng các phẩm kinh để truyền cho bậc hậu học.
Ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), Đệ Tam Tổ Huyền Quang viên tịch. Thọ 81 tuổi và được an táng trong Bảo Tháp Chiêu Minh tại chùa Côn Sơn ở Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay. Bảo Tháp Chiêu Minh do Vua Trần Minh Tông, cúng mười lạng vàng, bảo Tăng, Ni và môn đồ xây dựng ở bên trái phía sau chùa; và cấp 150 mẫu ruộng ở nhiều nơi để lo việc kỵ giỗ. Đồng thời, ban tên thụỵ là Trần Triều Trúc Lâm Thiền sư Đệ Tam Tổ, sắc phong là Tam giáo Trạng nguyên Tự Tổ Huyền Quang Tôn Giả Tôn thần.
Chúng ta trân trọng tôn quý Tam Tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử: Đức Vua Trần Nhân Tông, không ham quyền quý lợi danh, truyền Ngôi cho con, từ bỏ lầu son, điện ngọc, xuất gia tu hành với Đạo hiệu Trúc Lâm Đại Đầu Đà, là một vị Vua anh minh nhất triều đại nhà Trần, sáng lập ra Thiền phái Trúc Yên Tử, là Sơ Tổ Trúc Lâm và trở thành Đức Phật của Việt Nam.
Người thứ hai là Đồng Kiên Cương, Đạo hiệu Pháp Loa, là một người dân giác ngộ Thiền lý sâu xa, trở thành Đệ Nhị Tổ Thiền Trúc Lâm; Người thứ ba là Lý Đạo Tái, Đạo hiệu Huyền Quang, là quan Trạng nguyên của triều đình giác ngộ Thiền lý sâu xa, từ quan xuất gia, trở thành Đệ Tam Tổ Thiền Trúc Lâm, đã cùng với Đệ Nhị Tổ Pháp Loa thực hiện ý chỉ Thiền của Sơ Tổ Trúc Lâm, lãnh đạo Tăng đoàn, làm cho dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển rực rở nhất thời Trần.
3. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
“Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần của quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hoá Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng, nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình” [1]
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là sự dung hợp của ba dòng Thiền (Tì Ni Đa Lu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường) với sự sáng lập của Tam Tổ Trúc Lâm. Trước khi Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử độc lập ra, ba dòng Thiền trên đã du nhập và tồn tại trong đời sống văn hoá, tín ngưỡng Đại Việt.
Dòng Thiền Tì Ni Đa Lu Chi do Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi sáng lập. Thiền sư là ngời ở Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), sang Trung Hoa vào thế kỷ VI, đắc pháp với Tổ Tăng Xán, được Tổ chỉ dạy về phương Nam truyền đạo. Ở nước ta, dòng Thiền Tì Ni Đa Lưu Chi đã trải qua 19 thế hệ truyền đăng, trong thời gian từ thế kỷ VI (năm 580) đến đầu thế kỷ XIII (cuối thời Lý, đầu thời Trần).
Dòng Thiền Vô Ngôn Thông do Thiền sư Vô Ngôn Thông sáng lập. Ngài là người Trung Hoa, là đệ tử đắc pháp của Tổ Bách Trượng. Thiền phái Vô Ngôn Thông truyền vào Việt Nam từ thế kỷ IX (năm 820), đến cuối thời Lý, đầu thời Trần, trải qua 17 thế hệ truyền đăng.
Dòng Thiền Thảo Đường do Thiền sư Thảo Đường sáng lập. Thảo Đường là vị tăng phát hiện trong nhóm tù binh bắt được của Chiêm Thành sau cuộc chinh phạt của vua Lý Thánh Tông năm 1069. Thảo Đường là nhà sư Trung Hoa thuộc truyền thống của Thiền sư Tuyết Đậu - Minh Giác, tông Vân Môn. Ở Việt Nam, dòng Thiền Thảo Đường trải qua 6 thế hệ truyền đăng trong khoảng thời gian từ năm 1069 đến cuối thời Lý, đầu thời Trần.
Với ý thức độc lập dân tộc của một quân vương minh triết, vua Trần Nhân Tông cùng Đệ nhị, Đệ tam Tổ Trúc Lâm biết kế thừa tinh hoa của các phái Thiền Tông trước đó, xây dựng hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi Thiền Đại Việt trên hai tiền đề xã hội và tôn giáo đã đợc hình thành trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, dòng Thiền Yên Tử lại vốn được bắt đầu từ Thiền sư Hiện Quang (đời vua Lý Huệ Tông). Thiền sư Hiện Quang là sơ tổ dòng Thiền Yên Tử, tiếp đến là Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên (hay Viên Chứng), kế là Quốc sư Đại Đăng, Tiêu Diêu, Huệ Tuệ. Nếu xét theo dòng Thiền Yên Tử thì Tam Tổ Trúc Lâm là Tổ truyền đăng thứ 6, 7, 8 trong 23 Tổ truyền thừa của dòng Thiền Yên Tử. Song, chính Tam Tổ Trúc Lâm mới thực sự có công trong việc thống nhất các phái Thiền đã có để xây dựng thành một Thiền phái Trúc Lâm mà Đức Điều Ngự Giác Hoàng, Pháp Loa, Huyền Quang là Tam Tổ. Từ đây, Phật giáo Việt Nam đã có một dòng Thiền của người Việt.
Nhà Trần dựa vào Thiền Tông làm nền tảng tinh thần, nhưng cũng đã có sự thay đổi một vài nội dung để phù hợp với thực tiễn thời đại, nhất là bối cảnh Đại Việt lúc bấy giờ. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được thành lập nhằm bốn mục đích sau:
- Tự mình phân biệt với Thiền Tông Trung Quốc, biểu lộ tính độc lập.
- Thay đổi một phần nội dung tiêu cực và thân ngoại.
- Thống nhất ý thức hệ để tạo nên Phật giáo nhất tông.
- Khoác cho mình chiếc áo mới của một tôn giáo mới.
Pháp môn tu Thiền có nhiều loại. Đệ nhị Tổ Pháp Loa trong bài khuyên chúng Thượng Thừa Tam học đã chia Thiền ra thành 5 loại: “Phàm phu Thiền, Ngoại đạo Thiền, Tiểu thừa Thiền, Đại thừa Thiền và Thượng thừa Thiền”. Đệ nhị Tổ khẳng định: Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là Thượng thừa Thiền: “Đây nói Thiền chính là Thượng thừa Thiền vậy”. Theo Đệ nhị Tổ: “Đức Phật Thích Ca truyền cho 28 vị Tổ Ấn Độ và 6 vị Tổ Trung Hoa, rồi Tổ Tổ trao cho nhau truyền bá khắp nơi, tất cả các Tổ đều do giới này, định này, huệ này mà được chứng ngộ”.
Như vậy, tuy cũng là Thiền như các tông môn khác, nhưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - theo Đệ nhị Tổ Pháp Loa khuyến giảng - là loại Thiền Thượng thừa, nếu tu trì được sẽ thành Bậc Giác ngộ.
Thiền phái Trúc lâm có sự dung hợp, hiển đạt Tam tông (Thiền – Tịnh – Mật) và Tam giáo đồng nguyên (Phật - Nho - Đạo). Đây là nét đặc trng căn bản của Thiền phái Trúc Lâm.
Niệm Phật là một pháp tu của pháp môn Tịnh Độ. Thiền phái Trúc Lâm không phủ nhận và bài bác phép niệm Phật. Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sỹ cho rằng: “Đối với bậc hạ trí, miệng phải chuyên niệm lời Phật, tâm phải mong thấy tướng Phật, thân phải nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng tu hành không thoái chuyển, sau khi mạng chung (chết) sẽ tuỳ thiện niệm của mình mà được sinh về nước Phật, sau đó được nghe chính pháp do chư Phật giảng dạy mà chứng được quả vị Bồ Đề, cũng đạt tới địa vị Phật”([2]).
Đệ nhất Tổ Trúc Lâm cũng dạy rằng: “Tịnh Độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương / Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc”.
Theo các ý kiến trên, niệm Phật cũng là một phương tiện Thiền định, bởi niệm Phật là gạn lọc tâm ý, diệt trừ ác nghiệp, phá trừ những chướng ngại tâm lý để biểu lộ bản tính mà cũng là Phật tính([3]). Tăng chúng thời Trúc Lâm áp dụng phương pháp niệm Phật tập thể. Phật tử Trúc Lâm thời đó được niệm Phật ở chính điện. Thuyết pháp, độ sinh cũng là một pháp căn bản của pháp môn Tịnh Độ. Nhưng Tam Tổ sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm ngoài việc tham Thiền để đạt đạo, còn rất chú trọng đến giảng cứu kinh sách Phật, đi vào nhân gian để thuyết pháp, độ sinh. Đệ nhất Tổ từng “đi khắp xóm làng để giáo hoá và trừ bỏ các việc thờ cúng bậy, dạy cho thực hành mời điều thiện” (Thánh Đăng Ngữ Lục).
Mật Tông xuất phát từ Tây Tạng. Mật Tông lấy pháp trì chú làm căn bản. Mật Tông cũng được dung hợp trong tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm. Đệ nhị Tổ Pháp Loa ngoài việc tham Thiền còn “thường ngày đêm trì chú lễ Phật” (Tam Tổ Thực Lục). Sự dung hợp các pháp môn Tịnh Độ Tông, Mật Tông trong Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chính là sự dung hợp vô ngại. Nhờ đó, người tu theo Thiền Trúc Lâm Yên Tử có được sự lựa chọn về pháp tu trì phù hợp để tinh tấn. Số người tu theo pháp môn mới tăng lên trong thời Pháp Loa. Vào thời kỳ Thiền học Trúc Lâm bị mai một bởi giặc ngoại xâm và thiếu vắng người kế thừa, pháp môn Tịnh Độ vẫn tồn tại, đảm nhận trọng trách lưu giữ di sản tinh thần Phật giáo Trúc Lâm cho đến ngày nay([4]).
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chẳng những không đoạn tuyệt, mà còn dung hợp được tinh thần tích cực của Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian truyền thống. “Chính sự kết hợp mang tính toàn diện này đã làm Phật giáoTrúc Lâm tồn tại dài lâu với dân tộc do thâm nhập được vào đời sống của các tầng lớp xã hội, từ trí thức cho đến người ít học, từ hoàng tộc, quan lại cho đến dân thường”([5]).
Pháp môn tu của Thiền Tông, theo lời Tổ Đạt Ma là “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Có nghĩa là: không lập văn tự, truyền ngoài giáo lý, chỉ thẳng vào tâm người, nhận được bản tính đủ nhân thành Phật.
Khi Thái tử Trần Khâm (Trần Nhân Tông) hỏi cậu Trần Tung về tông chỉ đạo Thiền, Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung đáp: “Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc” (soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được). “Soi sáng lại chính mình” chính là yếu chỉ tu tập của Thiền phái Trúc Lâm qua câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sỹ.
Sở dĩ phải “phản quan tự kỷ” vì xa nay, con người thường cha biết đúng cái thật của thân, tâm mình. Cha biết đúng, rõ cái gì là mình. Từ mê lầm này sẽ sinh ra kiến chấp sai lạc, gây nên bao tội lỗi làm khổ mình, khổ ngời. Soi sáng lại nhân tâm mình thấy đúng như thật thì mọi kiến chấp đều bị phá vỡ, đem lại sự an lạc cho mình, cho mọi người.
“Soi sáng lại chính mình” sẽ nhận ra thân tâm của mình là vô thờng. Theo quan niệm của Phật giáo: Thân tâm do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) túc duyên hợp thành. Thân tâm là giả tạm, là mình nhưng cũng không phải là mình. Tâm danh lợi, nghĩ suy phải trái không phải là mình. Người sống trong thế gian này thường ngộ nhận thân, tâm đó là mình nên mắc vào mê muội khổ đau. Cho nên, người tu hành phải giác ngộ được chân lý: thân tâm này giả tạm, vô thường, không phải là mình. Tuy nhiên, soi sáng lại chính mình không chỉ ở chỗ nhận ra thân này là giả tạm, vô thường, không phải là mình, mà quan trọng hơn là phải nhận ra ngay nơi thân tâm vô thường đó có cái chân thường, trong thân tâm vô thường sinh diệt có tâm lặng lẽ hằng nhiên, không sinh diệt. Cái chân thường của tâm chính là Phật tính trong tâm của mỗi người. Thiền phái Trúc Lâm nhấn mạnh rằng: Phật ở trong Tâm của mỗi người. Không phải tìm kiếm ở bên ngoài mình. Chỉ soi sáng lại chính mình sẽ thấy mình là Phật. Quan điểm này biểu hiện qua câu nói của Quốc sư Đạo Viên khuyên vua Trần Thái Tông khi Ngài muốn về Yên Tử “cầu làm Phật”:
“Núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết đó chính là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ được chữ tâm thì lập tức thành Phật, cần gì phải đi cầu tìm ở đâu”.
Tuệ Trung Thượng Sỹ cũng có ý kiến tương tự thể hiện trong bài Phật Tâm Ca:
Muốn tìm tâm đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng...
Tâm tức Phật, Phật tức Tâm
Diệu chỉ sáng người suốt cổ kim
Quan điểm này cũng được biểu hiện qua bài thơ chữ Nôm Cư Trần Lạc Đạo của Đệ nhất Tổ Trúc Lâm:
Vậy mới hay:
Bụt ở cong (trong) nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản (quên mất gốc) nên ta tìm Bụt
Đến biết hay chỉn (chính) Bụt là ta.
“Soi sáng lại chính mình”, giác ngộ được bản Tâm là yếu chỉ của Thiền Tông nói chung và của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, được diễn đạt rõ ràng qua lời nói, qua thơ văn của các Thiền sư, cư sỹ Trúc Lâm thời nhà Trần. Ngời tu Thiền đạt đạo dễ dàng nhận ra “cái Tâm muôn pháp là Tâm Phật/ Tâm Phật lại cùng Tâm ta hợp/ Lẽ ấy tự nhiên suốt cổ kim” và đạt đến mức “đi cũng thiền, ngồi cũng thiền”, lúc nào cũng sáng suốt nhận ra “trong lò lửa rực” của thân tâm giả tạm vẫn có “một hoa sen” Tâm Phật của chính mình.
Tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được thể hiện rất rừ:
Tâm Phật cũng là Tâm Dân tộc. Cái Tâm ấy được thể hiện qua lời khuyên của Quốc sư Trúc Lâm với vua Trần Thái Tông khi Ngài lên Yên Tử “cầu làm Phật”: “Phàm đã làm vua trong thiên hạ phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nếu bệ hạ thực lòng hiểu Phật thì không gì bằng lo cho hạnh phúc của trăm họ, giảm nhẹ hình án, chăm lo cây đức của mọi nhà mãi mãi sum xuê. Và nữa, sự tìm hiểu nội điển, xin bệ hạ chớ nguôi quên”([6]).
Đó là tư tưởng chỉ đạo nhà vua tự giác và yên tâm trở về kinh đô nhận vai trò và nhiệm vụ dìu dắt, chăm lo cho trăm họ, bảo vệ giang sơn, đồng thời không xa rời bổn phận của một thiền sư cư sỹ. Qua câu nói trên, tâm từ bi của đạo Phật đã được truyền thụ thành t tởng chính trị cho một bậc quân vương. Tư tưởng chính trị ấy là động cơ triệu tập và là tinh thần của Đại hội Diên Hồng cũng như Hội nghị Bình Than, làm cho “vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước gắng sức” thề “sát Thát” cứu nước, cứu dân, lập lên những chiến công oanh liệt: ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi (1258,1285,1288); đồng thời là ánh sáng soi dẫn những chính sách canh nông, đê điều, chấn chỉnh phong hoá, khuyến học, khuyến tài, cứu tế ngời cô quả, chăm lo phúc lợi và đời sống cho trăm họ mà nhà Trần đã thực hiện thành công trong nửa đầu triều đại của mình.
Trước sự tồn vong của quốc gia, chỉ có những vị vua ngộ đạo coi sống chết là lẽ thường nhiên mới đích thân cầm quân xông ra trận, bất chấp hiểm nguy như các vua đầu triều Trần, khiến cho quân sỹ cả nước nức lòng chiến đấu với ý chí quyết chiến và quyết thắng.
Tâm Phật trong tâm của mỗi người. Thiền phái Trúc Lâm quan niệm tâm Phật trong tâm của mỗi người. Làm người ai cũng có tâm Phật. Từ bậc thiện tri thức đến hạng phàm phu đều có tâm Phật. Vì người ta quên đi Phật tính trong mỗi người nên mới “cầu tìm ở bên ngoài”. Tâm Phật thường bị các vô minh che lấp. Chỉ cần tâm tĩnh lặng và soi sáng lại chính mình thì thấy được “Bụt chính là ta”. Quan niệm “Phật là ta” là bản lĩnh tư tưởng đặc sắc và mạnh mẽ của Phật giáo thời Trần, của các Thiền sư cũng là người lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước, cũng là những vị tướng cầm quân bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này bảo vệ và đề cao con người tự chủ và chịu trách nhiệm về chính mình. Chính mình làm lên và quyết định tất cả, không ỷ nại trông chờ vào tha lực. Vì quên mất gốc là chính mình nên mới đi tìm ở ngoài. Đến khi tỉnh ngộ, “lặng lòng mà nhận biết” mới thấy Phật ở ngay nơi tâm mình mà chẳng nhận ra.
Việc Tam Tổ Trúc Lâm tới các thôn cùng xóm vắng thuyết pháp, độ sinh, khuyên dân tu “thập thiện” chính là việc hướng dẫn cho dân “soi sáng lại chính mình”, để nhận ra Phật ở chính mình.
“Phật tại Tâm”, nên ai cũng tu được. Tu mọi lúc, mọi nơi. Tu tại gia là khó thành công nhất, nhưng cũng thành tựu nhất, nên dân gian có câu Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tụ chợ, thứ ba tu chùa
Tuy nhiên, theo Đệ nhất Tổ Trúc Lâm, không phải ai đi tu cũng đắc đạo:
Phô người học đạo
Trúc hoá lên rồng
Một hai là hoạ
Tam Tổ Trúc Lâm không khuyên chúng dân xuất gia vào chùa, mà khuyên mọi người tu ngay trong cuộc sống đời thường; trường hợp xuất gia cũng ở tại căn cơ hay tiền duyên của họ. Với chúng dân, thực hành tốt 10 điều thiện, giữ sạch giới lòng, trang nghiêm, hiền thảo và trung hiếu:
Sạch giới lòng, chùi giới tướng
Nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha
Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
(Cư Trần Lạc Đạo Phú)
hoặc tiến hơn thì đóng góp sức mình cho nhân quần xã hội, tạo một Tịnh Độ ngay trên cuộc sống hiện thế này cũng là phước đức rồi .
Ở Đời vui Đạo là lối sống thanh tịnh và an lạc của Đệ nhất Tổ Trúc Lâm và các Thiền sư, cư sỹ Trúc Lâm khi đạt đạo. Lối sống này đã tạo nên tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm. Sống ở đời, làm việc đời mà vẫn vui đạo, vui niềm vui của đạo, hay nói cách khác, sống vui đạo ngay cả trong đời thường. Đó là sự thống nhất một cách tự nhiên và sinh động giữa lối sống đời thường và hành trạng thiền s; không ưcờng điệu, giả tạo, gượng ép, không biệt lập, tách rời cuộc sống đời thường với hành trạng thiền sư.
Đệ nhất Tổ Trúc Lâm cho rằng:
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tác
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật đã đồ công
(Cư Trần Lạc Đạo Phú)
Ở đây, Ngài khẳng định: sống nơi trần tục, đời thường mà thành người, phúc ấy mới lớn, mới được mọi người yêu kính; còn như vào rừng núi tu hành mà chẳng biết được lẽ đạo, thì cái hoạ kia sẽ tới và việc tu hành thật uổng công.
“Ở đời vui đạo” là sự vui vẻ chấp nhận một cuộc sống đời thường mà sống đạo như việc hoà lẫn ánh sáng vào trong bụi (hoà quang đồng trần). Mỗi người nhận ra và phát huy vẻ sáng của viên ngọc trong chính mình (gia trung hữu bảo), để làm cho người đời đỡ bụi bậm và viên ngọc trong mình, trong tất cả mọi ngời được sáng lên.
Tuệ Trung Thượng Sỹ - người thầy khai ngộ tôn chỉ Thiền Tông cho Trần Nhân Tông - sống rất đời:
Đường đời dẫu có chông gai mấy
Lão chẳng như xa bớc ngại ngần
(Thượng Sỹ Ngữ Lục).
Thượng sỹ chẳng nề ăn chay hay ăn mặn. Ngài vẫn thản nhiêm ăn tiệc mặn trước bao con mắt của người đời. Người theo đạo Phật tất phải trì giới và nhẫn nhục. Ngài lại cho rằng:
Trì giới và nhẫn nhục
Chuốc tội, chẳng được phúc
Muốn biết không tội phúc
Đừng trì giới nhẫn nhục
Ngài còn nhắc: “Chớ nói cho ngời không ra gì biết”(điều này!).
Hoà thượng Thích Thanh Từ giải thích rõ việc này: Ngời không hiểu đạo có thể cho rằng Ngài phá giới, phản đạo. Nhưng với một Thiền gia cao đạo như Ngài, dù ăn tiệc mặn, nhưng tâm không vướng chấp “tiệc mặn”. Chỉ có người “không ra gì” (không hiểu Đạo) mới còn chấp ngã, khi ăn tiệc mặn vẫn còn vướng chấp “tiệc mặn”. Kể cả việc giữ giới và nhẫn nhục. Nếu còn giữ giới, có nghĩa trong tâm còn mầm phạm giới. Nếu còn nhẫn nhục, có nghĩa trong tâm còn sân hận. Thân tâm còn ngã, còn chuốc tội. Nếu trong tâm không còn phạm giới, ta không cần “trì giới”. Trong tâm không sân hận, ta không cần “nhẫn nhục”. Nếu còn chấp ngã, không thấy được Nh Lai. Thiền môn chỉ dạy giữ giới cho đến chỗ không có gì để giữ, nhẫn nhục đến mức không còn gì để nhẫn, tu đến chỗ vô tu mới thực sự là tu.
Đệ nhất Tổ Trúc Lâm từ bỏ cuộc sống vương giả để tu hạnh Đầu Đà, mặc áo nâu, đi hài cỏ, kết am tranh nơi núi rừng Yên Tử, bỏ ngựa xe đi bộ tới các nơi dân dã để “được nghe tiếng nói của dân và xem xét lòng dân, để biết khó khăn ở nơi dân”([7]) như ông nội Thái Tông đã từng làm, để thuyết pháp, giáo hoá độ sinh, cứu giúp chúng dân khỏi vô minh, khổ ải, xây dựng Tịnh Độ nơi trần thế. Đó là biểu hiện sinh động nhất của một tấm gương “ở Đời vui Đạo”.
Trần Nhân Tông trớc lúc xuất gia đã giữ nghiêm giới tịnh. Trong một bữa tiệc tại điện Dưỡng Đức ở Hành cung Vũ Lâm, thức ăn có “chân rùa bóc đỏ mọng, Yên ngựa nướng vàng thơm”, nhưng “Sơn tăng giữ giới sạch, Cùng ngồi, chẳng cùng ăn”. Ngài biểu lộ cái lý “ở Đời vui Đạo” qua áng thơ nôm bất hủ:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
(Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có ngọc thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền)
(Cư Trần Lạc Đạo Phú).
“Cư Trần lạc đạo”(ở đời vui đạo) chính là điểm độc đáo trong lối sống và tu hành của các Thiền sư, cư sỹ Phật giáo Trúc Lâm thời nhà Trần. Lối sống này biểu hiện tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm, tạo nên sự gắn kết giữa Đạo và Đời, khiến Đạo “đạo hơn” và Đời sẽ “đời hơn”.
Tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm còn thể hiện ở sự “tuỳ duyên” trong việc hành trì, giáo hoá độ sinh của các Thiền sư và cư sỹ Trúc Lâm thời Trần. Tinh thần khế lý, khế cơ của đạo Phật được phát huy trong việc hướng dẫn chúng dân tuỳ căn cơ tu tập. Mặc dù Thiền Tông là “chỉ thẳng tâm ngời, thấy tính thành Phật” nhng đối với những người cha đủ điều kiện để thực hành theo pháp của Thiền Tông thì các Thiền sư, cư sỹ thời Trần vẫn hướng họ tu tập theo pháp môn Tịnh Độ. “Đối với bậc hạ trí, miệng phải chuyên niệm lời Phật, tâm phải mong thấy Phật, thân phải nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng tu hành không thoái chuyển...”([8]). Họ xem niệm Phật cũng là một phương tiện Thiền định, bởi niệm Phật là gạn lọc tâm ý, diệt trừ ác nghiệp, phá trừ trướng ngại về tâm lý làm hiển lộ bản tính của Phật tâm, cũng như xem pháp trì chú của Mật Tông cũng là một pháp tu hữu dụng.
Tông chỉ Tam pháp ấn: Thiền-Tịnh-Mật cũng được các Thiền sư cư sỹ Trúc Lâm thời Trần phổ cập trong giới tăng lữ để dẫn dắt các tầng lớp nhân dân dễ dàng trong việc hành trì các phương pháp phổ biến, không chỉ có tư tưởng Thiền học cao siêu ở tầng lớp tăng sỹ và trí thức vương tôn mới có thể hội đủ yếu tố tham học được. Phương pháp trừng tâm theo Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi do Tam Tổ Trúc Lâm biên soạn là pháp tự tu thân, khẩu, ý hữu hiệu, bất cứ ai muốn “kiến tính thành Phật” đều có thể thực hành.
Bởi vậy, ở thời Trần không chỉ có ngời xuất gia mới ngộ đạo mà cả cư sỹ tại gia cũng ngộ đạo. Tấm gương của vua Trần Thái Tông (1218-1277) và Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230-1297) tiêu biểu cho hàng cư sỹ ngộ đạo Thiền Trúc Lâm thời Trần. Đối với hàng vua quan, Đệ nhất Tổ Trúc Lâm khuyên họ tu theo Bồ Tát giới. Đối với chúng dân thì thực hành Thập thiện. Tuỳ theo căn cơ từng đối tượng, Tam Tổ Trúc Lâm hướng dẫn cách tu tập khác nhau, tự mình đi bằng phương tiện phù hợp với mình để cập đến bến bờ Giải thoát.
Với những nét đặc trưng cơ bản của Thiền phái Trúc Lâm được nêu trên, không phải ngẫu nhiên, Phật giáo Trúc Lâm lại phát triển cực thịnh ở thời Trần, có sức hấp dẫn đông đảo người lương thiện. Và, cũng không phải ngẫu nhiên: vua tôi nhà Trần cả ba lần lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Nguyên - Mông thắng lợi, xây dựng “non sông nghìn thủa vững âu vàng”.
Phòng Nghiệp vụ – Tuyên truyền BQL Yên Tử
[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (Tập 1, trang 482)
[2] Nguyễn Lang. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận. Nxb Văn học. Hà Nội 1994, tr. 489.
3,4. Theo ý kiến của Thượng Tọa Thích Đồng Bổn (Tiến sỹ Nguyễn Thanh Nam) viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
6] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Quyển V. Nxb KHXH. Hà Nội 1970.
[7] Bai tựa Thiền Tông Chỉ Nam Tự của Trần Thái Tông.
[8] Nguyễn Lang. Sđd, tr. 489.