Đền Trần Hưng Đạo, Miếu Vua Bà, Bến Đò Cổ tại phường Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
Đền Trần Hưng Đạo, Miếu Vua Bà và Bến Đò cổ thuộc phường Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh là một trong những điểm di tích nằm trong Khu di tích Quốc gia đặc biệt Bạch Đằng, tỉnh Quảng Ninh. Đây là những di tích gắn liền với những câu chuyện lịch sử hào hùng của cha ông ta trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược (năm 1287-1288). Năm 1990 di tích được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, năm 2012 được xếp hạng là xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
1. Đền Trần Hưng Đạo
Là di tích lưu niệm anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - Người làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, đồng thời là di tích lưu niệm sự kiện lẫy lừng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta - Đại thắng Bạch Đằng năm 1287-1288.
Đền có tên chữ là “Bạch Đằng linh từ” (đền thiêng Bạch Đằng), nhân dân thường gọi là đền Trần Hưng Đạo.Theo “Bạch Đằng linh từ bi ký” năm Bảo Đại thứ 17 (1942) có ghi ngôi đền trước đây do dựng trên một thế đất "chật hẹp, hơn nữa vị trí chưa được đẹp, nơi thờ cúng chưa hợp chốn" cho nên đến năm 1934 - Niên hiệu Bảo Đại thứ 9 triều Nguyễn ngôi đền đã được chuyển về vị trí như hiện nay "đền chuyển về đây, chẳng những tín ngưỡng cầu sự linh thiêng mà mỗi lần nhìn dòng sông cuồn cuộn lại nhớ mãi những chiếc cọc gỗ cắm trên sông và thấy ân đức của Ngài cao vời vợi”. Đây là doi đất cổ, nằm ở giữa sông Bạch Đằng, nơi trung tâm chiến trận Bạch Đằng năm 1288. Nhân dân gọi là đượng Gàn Xương (Xương có nghĩa là cát do dòng nước và sóng xô tụ lại thành đượng).
Để tưởng nhớ công lao sinh thành dưỡng dục Trần Quốc Tuấn, nhân dân còn thờ Vương Phụ, Vương Mẫu (cha, mẹ của Trần Quốc Tuấn) và thờ hai cô con gái của ông là Đệ Nhất Vương Cô và Đệ Nhị Vương Cô.
Ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, ngôi đền khang trang như hiện nay được tôn tạo vào năm 2002-2003 bằng nguồn ngân sách nhà nước và nguồn xã hội hoá. Các công trình xây dựng bao gồm đền chính, nhà bia, nhà soạn lễ và các công trình phụ trợ như: đường vào, nghi môn trụ biểu, sân vườn, sân khấu, điện chiếu sáng, tường bao... với khuôn viên rộng hơn 5.000m2, tổng kinh phí hơn 4 tỷ đồng.
Đến với đền Trần Hưng Đạo, điều đầu tiên cảm nhận ở nơi đây một không gian rộng lớn thoáng đãng, tĩnh mịch và tôn nghiêm, tương xứng với tầm vóc và giá trị của di tích. Cổng đền là nghi môn trụ biểu, thân các cột trụ đắp nổi 4 đôi câu đối, nội dung ca ngợi Đức Thánh Trần:
南 國 山 河 正 氣 如 生 萬 古 容 儀 光 日 月
東 阿 事 業 芳 名 不 朽 千 秋 顯 跡 著 乾 坤
“Nam quốc sơn hà, chính khí như sinh vạn cổ dung nghi quang nhật nguyệt;
Đông A sự nghiệp phương danh bất hủ thiên thu hiển tích trứ càn khôn”.
Dịch nghĩa: Sông núi nước Nam, chính khí như sinh muôn thuở dung nghi ngời nhật nguyệt;
Sự nghiệp Đông A, tiếng thơm bất hủ, nghìn năm dấu tích rạng càn khôn.
江 上 植 樁 戰 略 至 今 傳 偉 略
匣 中 鳴 劍 餘 靈 長 在 護 生 靈
“Giang thượng thực thung, chiến lược chí kim truyền vĩ lược;
Hạp trung minh kiếm, dư linh trường tại hộ sinh linh”.
Dịch nghĩa: Trồng cọc trên sông, chiến lược đến nay truyền võ lược;
Kiếm vang trong hộp, oai linh còn mãi giúp sinh linh.
家 孝 子 國 忠 臣 功 烈 照 丹 青 寧 只 兩 回 安 社 稷
文 經 天 武 拨 亂 英 靈 參 氣 化 尚 留 終 古 奠 山 河
“Gia hiếu tử, quốc trung thần, công liệt chiếu đan thanh, ninh chỉ lưỡng hồi an xã tắc;
Văn kinh thiên, vũ bát loạn, anh linh tham khí hoá, thượng lưu chung cổ điện sơn hà”.
Trong nhà là con hiếu, với nước là trung thần, công lao rạng rỡ sắt son, lòng son đâu chỉ hai lần yên xã tắc;
Văn kinh bang, vũ trừ giặc, anh linh dự cùng trời đất, còn lưu muôn thuở vững sơn hà.
沒 陣 瀧 藤 㳥 ?? 㐌 散 魂 逆 賊
?? 秋 ?? 藥 ?? ?? 群 聚 氣 英 雄
Một trận sông Đằng, sóng gió đã tan hồn nghịch tặc;
Nghìn thu non Dược, khói mây còn tụ khí anh hùng
Cổng đền
Ngôi đền quay hướng Nam, kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, gồm tiền đường, bái đường và hậu cung.
Tiền đường: Kiến trúc năm gian hai trái rộng 178.5m vuông. Tiền đường có một bức đại tự và 5 câu đối sơn son thiếp vàng, ca ngợi công lao của Trần Hưng Đạo đối với giang sơn đất Việt. Ngoài ra gian tiền đường có bộ kiệu bát cống (để rước tượng) và bộ kiệu Long đình để rước sắc có niên đại đầu đời Nguyễn và 4 đạo sắc phong các vua Triều Nguyễn phong cho các chủ nhân đền Trần Hưng Đạo.
Bái đường có diện tích khoảng 100 m2 gồm 3 gian hai trái, Bái đường là nơi thờ tượng Trần Hưng Đạo, nét trạm khắc khá tinh xảo, phía trên tượng là một bức cửa võng bằng gỗ sơn son thiếp vàng chạm khắc tứ quý.
Gian phải của bái đường là ban thờ Đệ Nhất Vương Cô, tượng bằng gỗ cao khoảng 70 cm, tức Trinh công chúa (Quyên Thanh công chúa sau này là hoàng hậu Bảo Thánh vợ vua Trần Nhân Tông).
Gian trái của bái đường có ban thờ Đệ Nhị Vương Cô tức Anh Nguyên công chúa (công chúa Anh Nguyên ) con gái nuôi của Trần Hưng Đạo sau này là vợ điện súy tướng quân Phạm Ngũ Lão.Tượng và khám thờ kích thước và trang trí giống ban thờ đệ nhất vương cô.
Hậu cung: Có 1 gian diện tích khoảng 40 m2, là nơi đặt khám thờ tượng Hưng Đạo Vương ngồi trong ngai, tượng cao 93 cm. Bên phải gian hậu cung là ban thờ Vương Mẫu (mẹ của Trần Hưng Đạo). Bên trái gian hậu cung là ban thờ Vương Phụ ( bố của Trần Hưng Đạo) An Sinh Vương Trần Liễu.
Nhà bia: Ở bên phải đền, được xây dựng tôn tạo cùng thời điểm với đền chính, quay hướng Đông. Nhà bia là nơi lưu giữ ba tấm bia đá xanh: Bia“Bạch Đằng linh từ bia ký” (Bài ký bia đền Bạch Đằng), làm năm Bảo Đại thứ 17 (1942), ghi lại năm di chuyển đền Trần Hưng Đạo từ Làng Rừng về vị trí hiện nay. Bia “Tu lý hưng công” (bia hưng công), làm năm Bảo Đại thứ 17 (1942) và bia “Thập phương công đức bi” (bia công đức) không ghi năm làm bia, ghi lại tên của những người trong xã Yên Hưng cúng ruộng, tiền tu sửa đền Trần Hưng Đạo và miếu Vua Bà.
Nhà bia
Nhà soạn lễ: Ở phía sau đền chính, kiến trúc kiểu chữ “nhất”, là nơi để du khách sắp sửa lễ vật trước khi dâng tiến vào đền.
Lễ hội bạch đằng: Lễ hội Bạch Đằng còn là ngày giỗ trận, thời gian diễn ra lễ hội trong 4 ngày từ mùng 6 đến mùng 9 tháng 3 hàng năm với phần Lễ và phần Hội, phần Lễ với nhiều nghi Lễ rước thần như rước tượng Trần Hưng Đạo và Đệ Nhất vương cô, Đệ Nhị vương cô từ đền Trần Hưng Đạo về đình Yên Giang để tế lễ hôm sau chính hội lại rước về. Phần Hội gồm các trò diễn dân gian tái hiện chiến trận Bạch Đằng 1288: chơi đu, kéo co, chọi gà, cờ người, tổ tôm điếm và bơi chải truyền thống Bạch Đằng.
Lễ rước trong Lễ hội Bạch Đằng - ảnh sưu tầm
2. Miếu Vua Bà
Miếu Vua Bà nằm trong khuôn viên di tích đền Trần Hưng Đạo. Miếu thờ bà bán hàng nước, xưa kia trước cửa miếu là bến Đò Rừng cổ. Tương truyền, trên bến đò, dưới tán cây Quếch cổ thụ có một bà bán hàng nước, phục vụ khách qua sông. Bà đã mách bảo với Trần Hưng Đạo lịch triều con nước và địa thế lòng sông Bạch Đằng và chiến thuật hoả công để Trần Hưng Đạo xây dựng trận địa cọc đánh giặc Nguyên Mông... Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, Trần Hưng Đạo đã tâu với vua Trần sắc phong cho bà là “Vua Bà”, cho lập miếu thờ ngay trên nền quán nước, cạnh cây Quếch ở bến đò xưa, có tên gọi miếu Vua Bà.
Miếu được tôn tạo năm 2001, quay hướng Tây. Trong miếu có thờ Đức Vua Bà và Tam tòa Thánh Mẫu, Ngũ vị tôn ông
Phía trước miếu là bến Đò Rừng cổ với một khoảng không gian rộng, thoáng đãng nhìn ra sông Bạch Đằng lịch sử.
Sân miếu Vua Bà có một cây Quếch cổ thụ hơn 700 tuổi, tán lá sum suê toả bóng mát, càng tăng thêm vẻ u tịch chốn thâm nghiêm.
Miếu vua bà
Cây Quếch cổ
3. Bến Đò Rừng
Bến Đò Rừng nằm bên tả ngạn sông Bạch Đằng, trước cửa miếu Vua Bà và cây Quếch cổ thụ. Vào thời Trần, bến đò thuộc Làng Rừng, là nơi đưa khách qua Sông Rừng (sông Bạch Đằng) nên gọi là bến Đò Rừng. Cuối thế kỷ XIX trở về trước, bến đò này là nơi đưa khách qua sông Bạch Đằng từ Quảng Yên, Quảng Ninh sang Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Nay bến Phà Rừng được xây dựng ở địa điểm mới, cách bến Đò Rừng cổ khoảng 1km về phía Nam.
Tại bến Đò Rừng vẫn còn một cây Quếch cổ thụ có độ tuổi hơn 700 năm gắn với truyền thuyết Vua Bà, là nơi có bà bán hàng nước - người đã cung cấp cho Trần Hưng Đạo lịch con nước triều, địa thế lòng sông để Trần Hưng Đạo xây dựng trận địa cọc trên dòng sông Bạch Đằng. Đây cũng là nơi Trần Hưng Đạo chọn phát hoả làm hiệu lệnh cho quân sỹ mai phục ở hai bên dòng sông Bạch Đằng nhất loạt tiến công đạo binh thuyền của quân giặc Nguyên Mông khi chúng lọt vào trận địa cọc, góp phần làm nên chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.
Bến Đò Rừng cùng với đền Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà, bãi cọc Yên Giang, bãi cọc Đồng Vạn Muối và bãi cọc Đồng Má Ngựa... đã trở thành nguyên gốc di tích, minh chứng cho sự kiện lịch sử vĩ đại, ngày 09 tháng 4 năm 1288 (ngày 8 tháng 3 âm lịch), hơn 400 chiến thuyền và hơn bốn vạn quân xâm lược Nguyên Mông đã bị quân dân nhà Trần tiêu diệt và bắt sống trên sông Bạch Đằng. Đây là chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam.
( Phòng Nghiệp vụ - BQL Di tích và Danh thắng)